|
1.
Nói rằng triết học Âu Tây giỏi và bảnh rồi,
cho nên kiêu căng biệt cư, không cần chiếu
“camé” vào để “thâu” một ít vốn ở các hệ
thống triết học Á Đông nữa thì thật là
không đúng. Nói rằng triết học Á Đông có
một số mặc cảm rồi cam phận đơn cư thì lại
càng tuyệt đối không đúng lắm nữa.
Trái lại.
Triết học Âu Tây đến hết duy trí đến
Freud, đến Bergson là cần phải có lối
thoát cho chính nó. Nó đã gặp khủng hoảng:
tự nó nó không giải quyết được vấn đề căn
bản là vấn đề con người, giữa lúc đó thì
khoa học lại cũng không thể làm hơn cho
chính con người.
Trong các
khoa học thì khoa vật lý toán học là đi
lanh vun vút và lanh nhất: mà cũng chỉ vì
nó đi lanh quá, cũng chỉ vì thuyết tương
đối của Einstein và sự phát minh những yếu
lý về nguyên tử lực lăm le đi cho tới… bản
thể của vũ trụ vạn vật, nghĩa là đi cho
tới cái mà trong những ngày tối tăm của
lịch sử cổ Hy Lạp, Démocrite đã theo một
định đề mà tìm ra nguyên tử mà đầu thế kỷ
XX mới nảy ra cái tình thế chênh lệch giữa
khoa học và luân lý tính của loài người (décalage
entre la science et la morale) – như chúng
tôi đã nói – gây ra một sự khủng hoảng
nhân bản trầm trọng làm cho các tư tưởng
gia thế giới mất ăn ngon ngủ yên; đồng
thời nảy ra cái cảnh vật hoá (chosification)
con người – lại cũng như chúng tôi đã đề
cập; ấy là chưa nói sự khủng hoảng chỉ có
ngày càng tăng chứ chẳng giảm một chút nào;
vì nhịp lịch sử ngày nay nói dồn dập, chứ
không lững thững như thời phong kiến chính
thức xưa!
Triết học Âu Tây có chuyển hướng lớn, thật
cũng chẳng phải chuyện lạ: ban đầu từ
Kierkegaard, Nietzsche… rồi lại bắt đầu từ
Husserl, Heidegger, Jaspers (thôi, khỏi
nói Sartre!): tự triết học nó phải giải
quyết cho chính nó và đồng thời cũng quy
định tinh thần khoa học lý (esprit
épistémologique) cho triết khoa học nói
chung.
2.
Các triết gia Ây Tây hiện đại có quay qua
tìm một ít vốn yếu lý trong các hệ thống
triết học Á Đông Nho Phật Lão… - có Vương
Dương Minh ở trỏng – cũng chẳng là chuyện
phi lý. Họ không thiếu một Khổng Khâu và
Mạnh Kha vì họ đã có Sartre và Platon… Vốn
Khổng Mạnh, họ không cần vay, chỉ cần một
mẩu Vương Dương Minh mà chính họ cũng có
rồi! Họ không mượn… nhưng họ đối chiếu: số
là thầy Mạnh vốn hưởng gia tài của thầy Tử
Tư mà họ Vương lại hưởng lại gia tài của
thầy Mạnh rồi hoá hợp cái gia tài ấy với
cái phần duy-tâm-luận của Phật giáo: cái
être của Aristote là gì nếu không phải là
cái vị phát, cái étant là gì nếu không
phải là cái dĩ phát, của hai thầy Tử Tư và
Vương Dương Minh – và cái vị phát ấy nào
có khác cái thực thể “non-manifesté” của
bản thể học Âu tây cổ điển! Cái các thầy
có, họ có – họ không cần mượn. Duy có Phật
Lão Trang là có nhiều cái họ không có. Nên
họ phải mượn! Họ chiếu “caméra” vào Thành
duy thức, vào Thiền tông – nhất là Thiền
Karl Jaspers đã có lần nói rằng Phật giáo
là một hệ thống chứa câu trả lời vĩ đại
nhất về thân phận con người, và khả năng
tri thức của triết học Âu Tây chỉ là một
thực thể, có giới hạn – trước Phật giáo.
Nguyên văn câu nói ấy, anh Phạm Công Thiện
có trích và ghi trong cuốn Hố thẳm của tư
tưởng của ảnh, mà chúng tôi cũng đã được
đọc trong cuốn Les grands philosophes của
nhà xuất bản Plon bên Pháp. Mà việc
Jaspers nói vậy cũng chẳng phải là việc lạ!
Duy có một điều, ý của Jaspers làm cho
chúng ta suy một ra trăm, trăm ra ngàn, để
mà hiểu mọi lẽ trong trời đất, trong nhân
sinh chung – Đông và Tây – có tương quan
đến sự tiến hoá chung của chất trí thức
của cả loài người…
3.
Dù cho có loanh quanh hay luẩn quẩn để đi
vào mọi ngõ hay mọi ngách, chúng ta cũng
nhận thấy chỉ có hai cách phát vấn đề –
danh từ này là của Phan Văn Hùm, một người
ngày nay chưa ai thay được – siêu hình học
hay bản thể học – hai vấn đề này, tùy từng
triết gia mà chung, hay mà riêng.
Hai mà thôi.
Phái uyên nguyên, hay siêu tại, hay tại
ngoại (essentialisme hay là philosophie de
la transcendance) thì cho rằng trước và
ngoài không thời gian vạn vật có một thực
thể siêu hình mà mỗi một triết gia hay tôn
giáo gia đặt cho một cái tên khác nhau; và
nói về con người thì họ cho rằng con người
có một bản chất tiên thiên có sẵn – đồng
thời họ gán cho cái bản chất ấy một “tĩnh
từ” thiện hay ác và con người làm thì gì
làm… cũng theo cái bản chất có sẵn ấy,
nghĩa là nô lệ cho nó. Cùng một lúc, họ
giải quyết vấn đề nhân bản (humanisme) một
cách giản dị: con người làm sao tu dưỡng
cho đến cái trình độ người mẫu mà tiếng
Pháp gọi là essence-type hay modéle-essence.
Còn phái thứ hai là phái nội tại – trong
đó có các phái duy vật và hiện sinh – mà
tiếng Pháp gọi là philosophie de
l’immanence. Họ không đặt vấn đề siêu hình
thuần tuý (métaphysique pure), không đặt
vấn đề Thượng Đế và không đặt vấn đề thực
thể uyên nguyên siêu hình. Có người như
Heidegger thì lại trốn vấn đề, nghĩa là
ông không đặt vấn đề Thượng Đế hay Uyên
nguyên để cho khỏi phải gặp nó. (Thú vị
quá! Chẳng biết nếu ông lỡ gặp, thì rồi
mới tính sao!). Có những như Sartre thì
lại hơi nhát gan: ổng nói rằng, dù cho có
Thượng Đế rồi thì cũng vẫn có bao nhiêu
vấn đề nhân sinh chứ chẳng phải là có, thì
nhân sinh sẽ biến thành Non Bồng Nước
Nhược! Kể thì Sartre cũng khá khôn ngoan
đây! Rồi phải hiện sinh vô thần nói phứt:
con người hiện hữu, rồi con người sẽ tự
tạo bản chất sau.
Ấy thế rồi cả Heidegger, Jaspers,
Sartre...., vô thần lẫn hữu thần, nói rằng
cũng như cái bản chất của con dao là để
cắt, của trái banh là để bay bổng, của
bánh xe là để quay tít và của con người là
để dùng tự do của mình mà tự tạo “bản chất”
cho chính mình: đồng thời giá trị con
người là ở thành tích (L’homme est la
somme de ses actes) – một yếu lý sơ đẳng
của thuyết hiện sinh. Nói một cách khác,
nói về vấn đề uyên nguyên, họ làm một nhận
xét, rồi từ nhận xét là con người hiện hữu
họ dựng “hệ thống” triết học về con người
sau. Nói một cách khác nữa, họ không đặt
vấn đề siêu hình cổ điển. Họ loại hẳn nó
đi: kẻ thì can đảm loại hẳn đi, kẻ thì
nhát nhát một chút: để lại một con đường
mòn, gặp biến cố cũng cố có lời mà trốn!
Còn như Phật giáo, Phật giáo cũng loại
những vấn đề siêu hình thuần tuý và nhận
xét rồi nói về đế thứ nhất trong bốn đế:
Con người khổ. Như Heidegger sau này.
4.
Chẳng hạn là như Phật giáo. Phật giáo cũng
nhận xét rằng con người hiện hữu (chẳng
nói rõ thế thì cũng là thế) – rồi nhận xét
rằng con người là khổ. Nghĩa là Phật giáo
loại hẳn vấn đề siêu hình, loại không
thương tiếc – ở tất cả mọi hình thức. Xin
nói lại: ở tất cả mọi hình thức. Còn nói
về sinh mệnh trong thời gian thì Phật giáo
có hai yếu lý. Một là, nói về một cuộc đời
tại thế mà thôi thì con người tạo nghiệp –
cũng như Sartre nói l’homme est la somme
de ses actes; hai là nói về dòng sinh mệnh
trong thời gian được coi như là vĩnh cửu (eternité)
thì con người trải qua luân hồi… Cái mà
trong triết học hiện sinh gọi là sử tính (historicité),
trong con người của Phật giáo, nó “có mặt”,
nó “đánh dấu”, nó tham dự vào cái việc
dựng con người trong một kiếp cũng như
trong suốt cái dây luân hồi ấy!
Và, cái bế tắc của triết học Âu Tây của
Husserl, của Sartre và cái “khai thông”
của triết học Phật giáo nó quay xung quanh
cái vấn đề then chốt ấy.
5.
Phật giáo khá phong
phú cho nên Phật giáo có một lối thoát về
triết học rất chỉnh. Heidegger và Sartre
vì “khoa học” quá mà bế tắc!
Phật giáo có bốn đế. Đế thứ nhất là đế khổ.
Cái khổ toàn diện và khổ chung! Phật giáo
vẽ cái khổ như vẽ một bức tranh, như một
cái vạn hoa kính của một cái vạn hoa kính.
Vạn nhân với vạn, vạn của vạn của vạn cái
khổ lớn nhỏ trong nhân sinh. Chỉ nói: sinh,
lão, bệnh, tử… rồi nói thêm: cái gì có mà
mất là gây ra khổ, cái gì đương gần mà
phải xa đã gây ra khổ, cái gì đương hiệp
mà tan là gây ra khổ v.v… Nói thế rồi tự
con người dùng thông minh mà hiểu, dùng
kinh nghiệm mà sống, dùng trực giác mà
linh hồn là đủ hết, đủ hết. Chính những
cái khổ muôn mặt, muôn muôn mặt ấy, nó
ngăn con đường hạnh phúc, ngăn con đường
hướng thượng của con người. Và muốn sướng,
phải thoát khổ và thoát nghiệp.
Giữa lúc đó thì
Heidegger lại cũng nói về một thứ “đế” của
Heidegger: cái mà Heidegger gọi là “existentiaux”.
Đối với Heidegger, thì con người khổ một
cách thiết yếu (nécessairement malheureux),
vì bản chất của con người là có hạn (esentiellement
fini). Nói một cách khác, Heidegger gọi
con người là ý thức hữu hạn (conscience
fini) – và cái yếu lý ấy là trực giác căn
bản (intuition centrale) của cả cái “hệ
thống” của Heidegger! Vậy chứ “đế” của
Heidegger gồm có bao?
Phật giáo thì nói sinh, lão, bệnh, tử – và
nghiệp – và luân hồi – hành trình phải dài
lắm; trong lúc đó thì Heidegger nói về
“đế” của Heidegger như thế này: một là sự
cô đơn mà ông gọi là déréliction, nghĩa là
tình thế con người tại thế (être-au-monde)
bị bỏ rơi giữa đời sống hữu hạn; hai là
cái chết – cái chết giống cái tử của Phật
giáo, chỉ có khác ở chỗ là cái chết của
Phật giáo chỉ là một “giai đoạn” dẫn con
người đi xong một “vòng” trong cái vô cùng
của luân hồi, trừ phi là ngộ, là giác; ba
là sự hữu hạn về thời gian của con người
mà Heidegger gọi là temporalité. Ngoài ra,
Heidegger còn nói tới sự tự do (liberté) –
cái tự do đó giúp cho con người sống và tự
thực hiện một cách bản thể (s’accomplir
ontologiquement).
Thực ra,
cái tự do ấy, cũng chẳng giúp gì cho con
người nhiều lắm, bởi vì bên kia sự tự do
(au-delà de la liberté) là hết, là hư vô,
là hố thẳm tối tăm… của hiện hữu thuần
phác (existence brute), và không còn vấn
đề gì nữa mà đặt!
Rồi Heidegger thở than như ai cũng đã thấy!
6.
Và cái mà Heidegger gọi là “existentiaux”,
Karl Jaspers gọi là giới cảnh, tiếng Pháp
gọi là situations limites – cũng như nhà
Phật nói sinh lão bệnh tử - mà cái giới
cảnh căn bản là lúc nào con người cũng
vướng trong hoàn cảnh (être en situation).
Nói một cách khác, Karl Jaspers muốn nói
về cái chết (la mort), sự đau thương (la
souffrance), sự tranh đấu (le combat) của
con người, ngăn đường hướng thượng (?),
ngăn đường hạnh phúc của con người.
Thực ra thì, nói về đế một, nhà Phải chỉ
nói một yếu lý ngắn, mà đủ hết. Riêng
Heidegger và Jaspers thì lại nói những
“existentiaux” và “situation-limites” đếm
được bằng tính cộng. Nói cho đúng, con
người bắt đầu sống là đã gặp ngay giới
cảnh rồi vậy! Từ cái nhỏ nhất là một con
muỗi cắn gây sốt rét rừng cho con người,
cho đến cái lớn nhất là thế chiến đệ nhất,
đệ nhị tàn sát hết nhân sinh chẳng hạn.
Chẳng riêng gì bấy nhiêu “existentiaux” và
bấy nhiêu “situationlimites”! Nói một cách
khác: mở mắt ra, nhắm mắt lại – cứ một sát
na con người đã gặp giới cảnh rồi vậy thay.
7.
Chúng ta đã thấy rõ, triết học của
Heidegger, của Sartre, của Jaspers
(Jaspers thì ít) hay nói tới sự thất bại (écbec)
sự hữu hạn (finitude) chỉ vì, nói tóm lại,
triết học hiện đại của họ, chỉ vì muốn
“khoa học”, mà coi đời sống con người cá
nhân chỉ có một kiếp – một thôi – là xong!
Vậy chứ một kiếp thì còn làm cái gì nữa
kia!
Trái lại, Phật giáo thì nói đời sống con
người là một sự tu dưỡng liên tục – cho
đến ngộ, đến giác qua bao nhiêu cái lóng
của dây luân hồi Cho nên triết học Phật
giáo có lối thoát – kể cả Lão Trang. Nói
rộng ra, triết học Âu Mỹ hiện đại, nếu có
bế tắc về nhân bản là cũng tại các phái
hiện sinh vô thần phân tích xong thì ngưng
lại. Thật ra, không đặt vấn đề siêu hình
học, hay có đặt vấn đề bản thể mà lại cho
nó một nghĩa khác, thì cũng khó mà đặt vấn
đề luân lý.
Trừ Karl Jaspers!
8.
Chính vì vậy, mà Heidegger chẳng hạn chống
Hegel, họ lại không làm được như Hegel:
thì theo Hegel thì tất cả mọi quá trình
biện chứng xong rồi thì một ngày kia, ý
tưởng tuyệt đối (idée absolue) sẽ gặp Lý
tính phổ biến (Raison Universelle) và lúc
đó sẽ đồng nhất (identification): sẽ không
có nhị nguyên tính của mọi “vật” – tức là
việc của Vương Dương Minh. Nói một cách
khác, nói về con người, khi mà cái en-soi-pour-soi
của Hegel thực hiện, cuối đoạn đường biện
chứng!
Và khi cõi “đắc nhất” của Lão Trang và cõi
“bất nhi” (tôi dùng ép chữ cõi) của Phật
giáo Thiền tông thực hiện thì biên giới
giữa chủ, khách – phải, quấy – trong,
ngoài – xấu, tốt - sẽ xóa vậy.
Và những “cái” nhân hiện hữu (dasein),
hiện hữu thuần phục (sciendes) và ý hiện
hữu (sein) của Heidegger sẽ hoà tan làm
một: cái thuần bản thể (ontique) và cái
nhân bản thể (ontologique) sẽ mất biên
giới; cái tự tại (en-soi) và cái ý thức
(pour-soi); của Sartre sẽ hoá nhất
(identification); vũ trụ loạn giới (monde
comme chaos) và vũ trụ thuần vô cùng
(monde comme cosmos) của Heidegger lại
cũng hoà đồng.
Nói như thế bởi vì theo Jean Paul Satre
thì cái vật thể tự tại (en-soi) và cái ý
thức (pour-soi) không bao giờ ăn khớp với
nhau được!
Thực ra là có!
Tôi xin phép kể một chuyện giai thoại:
Ngày xa xưa kia, ngài Ca Diếp, một hôm,
bảo ngài Anan phải tu dưỡng một đêm cho
chứng quả để ngày hôm sau ra hội nghị các
chư tăng cao cấp và “thuyết trình”. Sáng
hôm sau, sau khi đã tu và chứng quả, ngài
Anan đến phòng ngài Ca Diếp, xin vào để
trình sự chứng quả. Vì cửa phòng đóng cho
nên ngài Ca Diếp, bảo ngài Anan là cứ vào:
Vì đã chứng quả rồi thì cứ vào – chui qua
khe cửa mà vào chẳng hạn.
Ngài Anan có chui qua khe cửa mà vào không,
riêng kẻ viết bài này, vì học thiếu, nêu
không rõ. Nhưng có bạn
đọc sẽ hỏi: đó là chuyện phi lý.
Thực ra, nghĩ đến cực vi và cực diệu, thì
đó không phải là huyền thoại, mà là chuyện
có. Câu chuyện đó, nó có như một tượng
trưng và chứa một số luận cứ. Ngài Anan đã
chứng quả rồi, thì đã đến cảnh giới Bất
nhị, đến cảnh giới Đắc nhất, đến cảnh giới
Nhứt rồi. Không có nhị nguyên tính nữa,
không có chủ khác, không có trên dưới,
không có trong ngoài phải quấy, trước sau…
nữa. Đối với người đã chứng quả thì không
có vấn đề vào hay ra, trong hay ngoài!
Vật lý toán học đã làm những bài toán học
để đi đến cái điểm nói rằng nếu đem xếp
với nhau các trung hoà tử và dương tử của
Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn lại thì Nhà thờ Đức
Bà Sài Gòn sẽ còn nhỏ như hòn bi mà vẫn
cái nặng đủ ba trăm ngàn tấn như thường.
Tại sao triết học lại không giúp con người
thể nghiệm tâm linh được chuyện: chui qua
khe cửa vì không có trong và ngoài nữa,
của ngài Anan?
Giữa hai chuyện, chuyện Nhà thờ Đức Bà
không phải là huyền thoại, thì chuyện ngài
Anan sao lại là huyền thoại? (Toàn là
chuyện khả niệm chứ không phải là chuyện
khả giác!).
Khốn một nỗi, chúng ta hiện đương sống
trong cõi khả giác mà thôi! Tuy nhiên,
dùng lý tính mà suy, en soi sẽ gặp pour
soi; Dasein, Seiendes và Sein của
Heidegger sẽ hoà; ontique và ontologique
sẽ đồng nhất như đã nói ở trên. Chẳng thể
chối cãi được!
9.
Nói cho đúng ra, mỗ một triết gia Âu Tây
hiện đại đều có con đường cho con người tu
dưỡng – để làm cái việc mà riêng Phật giáo
gọi là giải thoát – mà các triết gia ấy
gọi là sống tại đời sống tại thế và sống
cái thân phận của mình. Phật giáo có bát
chánh đạo – còn các triết gia hiện sinh
nói gọn lỏn là vượt (dépassement) và nhận
cái thân phận trong đời chân nhân sinh,
tiếng Pháp gọi là assumer sa condition
d’homme, của một chân hiện hữu (existence
authentique).
Nhưng Karl Jaspers thì còn có hướng –
Heidegger thì lại bế tắc!
Thực ra, Phật giáo cũng không bảo là lên
một cõi xa xôi vun vút nào mà tu dưỡng –
con người có thể tu dưỡng ngay trong đời
sống theo yếu lý bất ly thế gian giác – và
theo đường quán cái thức, biến thức thành
trí. Vì thức là trí còn mê, trí là thức đã
giác.
Heidegger thì cố nhiên là “khép”: chỉ
riêng có Karl Jaspers là nghĩ tới ba cảnh
giới của hiện hữu: cảnh giới thứ nhất là
giới nghiệm hiện hữu (être empirique hay
dasein); cảnh giới thứ hai là nhân hữu (être
de l’homme hay là existenz); cảnh giới thứ
ba là tự tại giới (être en soi hay
transcendance) là cảnh giới cao nhất, siêu
nhất mà Jaspers cũng gọi là tuyệt đối, là
tha hữu viết hoa (L’Autre) và bên kia là
hư vô tuyệt đối (Xin hiểu cho rằng các
danh từ Dasein, Sein, être, en soi… mỗi
một triết gia dùng và gán cho chúng nghĩa
mà họ muốn).
Phật giáo khác: bên kia còn có các kiếp
trong luân hồi mà đầu xa xôi là bến giác.
Đến bến giác mới hết: và giữa hiện hữu và
giác có tất cả mọi thực thể bản thể (entité
ontologique) mà con người có thể dùng lăng
kính khoa học mà lãnh hội – nhưng đó lại
là một việc khác.
10.
Thì ra, trên vấn đề nhân bản thuần chất –
nếu có thể nói thế – Heidegger và Sartre
chỉ có một cái công là đã phản ứng chung
các hệ thống cổ điển Âu Tây – nhất là
Hegel – nhất là hai phái duy tâm và duy
thực thôi! Vậy thôi! Chớ vấn đề đặt ra, nó
vẫn nằm chình ình! Họ muốn lay chuyển cả
gốc Thiên Chúa giáo – là lẽ cố nhiên:
nhưng Thiên Chúa giáo đã có Karl Jaspers
chèo chống cho tất cả trong những cơn sóng
gió, - để đi con đường đã vạch.
11.
Giữa cái thời đại mà hình ảnh một cuộc tự
sát chung của cả loài người hiện ra – như
một cây kiếm Damoclès, chỉ có khác là về
kiếm Damoclès, huyền sử không nói nó có
rơi xuống đầu không, chứ bụi nguyên tử thì
thật là rất khó tránh, giữa cái thời đại
ấy, triết học Âu Tây thường đặt vấn đề
quay về Phật Lão Trang. Người có đầu thì
vào thư viện, người trẻ thì tập tham thiền.
Heidegger trước kia định mượn vốn Phật Lão.
Phật giáo có tứ diệu đế – tức là bốn đế
mới trọn, mới vẹn. Husserl chỉ mượn có một
“đế” thứ nhất, mà lại còn sót.
Bế tắc là phải!
Kể cả Jean Paul Sartre!
Cũng chẳng lạ!
Nguồn: Tạp chí Văn, Nghiên cứu và Phê bình
văn học, năm thứ nhất, đệ tam tam cá
nguyệt 1967, tập 3, trích từ trang 22 đến
trang 32. Chi phiếu, bưu phiếu đề tên ông
Nguyễn Đình Vượng. Thư từ, bản thảo, ấn
phẩm đề tên ông Trần Phong Giao. Giao
thiệp trực tiếp về mọi việc xin hỏi ông
Gia Tuấn. Số 38, Phạm Ngũ Lão, Sài Gòn.
Điện thoại: 23.595. K.D. số 1194 ngày
26-6-1967. Giá 30 đồng. Bản điện tử do
talawas thực hiện. |
|