Đức Dalai
Lama thứ 14, Tenzin Gyatso, đã
minh chứng nhiều cống hiến như
một lĩnh tụ tâm linh của dân tộc
Tây Tạng, nhưng Ngài đã nhận yêu
cầu để trở thành một nhà phê
bình cho tạp chí thần kinh học
thường xuyên như thế nào?
Lời đề nghị ấy đã xảy ra tại hội
thảo của một trường y học vào
ngày 05 tháng mười một của Giảng
đường Memorial từ một nhà thần
kinh học, người vừa mới nghe Đức
Dalai Lama bình luận về nghiên
cứu của bà. Trong khi dự kiến
của bà là một ngôn ngữ hơi táo
tợn một chút, bà thật nghiêm
chỉnh trong thú nhận của bà rằng
bà có thể hướng sự nghiên cứu
của bà một cách khác biệt nếu bà
đã nói chuyện với Ngài trước.
Sự nghiên cứu biểu tỏ rằng sự
thông cảm cho người khác tạo ra
sự hoạt động tích cực trong cùng
những khu vực của não bộ cũng
như chính niềm đau đớn. Những
nhà nghiên cứu dùng những người
thương yêu để khêu ra sự thông
cảm từ những đối tượng thử
nghiệm. Trong Phật giáo, sự tin
tưởng là việc thông cảm thấu
hiểu và từ bi cho những người
thương yêu là một sự mở rộng của
bản thân. Nhưng từ bi thật sự
đến từ cảm giác cho những người
nào đấy không liên hệ - hay thậm
chí là kẻ thù. Vì thế một thể
nghiệm nói hơn thế, Đức Dalai
Lama lưu ý, sẽ được thí nghiệm
những cảm giác như thế đối với
những người ít liên hệ thân
thuộc để thấy hoạt động tích cực
có khởi lên trong cùng những khu
vực của não bộ không.
Đấy chỉ là một trong nhiều điều
thông hiểu được chia sẻ trong cả
một ngày thảo luận là nét đặc
biệt của Đức Dalai Lama và một
nhóm 15 nhà thần kinh học, tâm
lý học, và Phật học. Sự kiện
được đặt cho nhan đề là “Khổ
đau, khao khát và lựa chọn:
Những khám phá của tâm linh, và
khoa học về kinh nghiệm của con
người.”
“Đây là một sự kiện quan trọng
mà nó thật sự hổ trợ tạo nên một
ý nghĩa giác ngộ và dấn thân hổ
tương,” khoa trưởng y khoa bác
sĩ Phillip Pizzo, nói như thế,
thêm rằng cuộc hội luận “không
phải là áp dụng những phương
pháp khoa học vào tôn giáo, hay
tín ngưỡng để nghiên cứu.” Nó là
chấp nhận thực tế rằng con người
là không gian đa dạng và có thể
học hỏi từ những quan điểm khác
nhau.
Câu hỏi của ngày, được đưa ra
một cách sớm suả bởi người tổ
chức sự kiện là tiến sĩ y học và
triết học William Mobley, giáo
sư Cahill trong trường Y dược,
và điều xuyên suốt cả ngày là :
“Thần kinh học với những khí cụ
và nhận thức của nó có thể mang
đến cho Phật học, với sự thực
hành thiền quán của nó, một số
hữu ích nào đấy và ngược lại
không?” Những sự thảo luận tiếp
theo tìm kiếm để xác định vị trí
chung giữa những lĩnh vực mà có
thể đưa đến những sự thông hiểu
to lớn hơn.
Để làm cho cuộc hội luận tập
trung, giáo sư Mobley, giám đốc
của Thần kinh học viện tại
Stanford nói rằng có những nhận
thức nào đấy mà họ không bàn tới
- những nhận thức thí như hóa
thân tái sinh, nghiệp báo, và
giác ngộ. “Những nhà thần kinh
học tránh tất cả những thứ của
những điều mà chúng tôi không
hiểu,” ông nói như thế.
Thay vì thế, những người tham dự
tập trung trên những nhận thức
về tham dục – craving (ái- khao
khát) và khổ đau. Một thử thách
đang được tiến gần là một sự
nhất trí trên ý nghĩa của thuật
ngữ “tham dục”. Trong Phật học,
tham dục, bởi tính rất tự nhiên
của nó, là một trạng thái ưu
phiền khổ não. Trong khoa học
phương Tây, tham dục hay khao
khát đơn giản là điều gì thúc
đẩy làm cho ai đấy làm một quyết
định. Sau khi thảo luận nhiều,
cả nhóm đồng ý rằng một chữ khác
có thể được dùng, có thể là thèm
muốn – desire.
Khi cuộc đối thoại nghiên cứu
sâu hơn, những câu trả lời dễ
dàng đã không rõ ràng ngay lập
tức. Tại một thời điểm ngay cả
Đức Dalai Lama cũng thừa nhận
rằng Ngài “quá bối rối” về việc
làm thể nào để quyết định khi có
những trình độ không lành mạnh
về thèm muốn và có hay không một
hình thức của thèm muốn mà nó
không là một hình thức của khổ
đau.
Tuy thế, có nhiều thời khắc “a
ha” của cả hai phía. (a ha: ngạc
nhiên, vui mừng thỏa mãn).
Trong sự liên hệ với một nghiên
cứu được phát hành năm vừa rồi
cho thấy rằng những bộ não của
những thiền giả có những thay
đổi lâu dài trong hoạt động tích
cực, Đức Dalai Lama nói, “Bây
giờ họ bắt đầu nhận thức rằng sự
tiếp cận của chúng ta là những
gì hữu ích. Chúng tôi vô cùng
vui mừng để thấy càng ngày khoa
học càng biểu lộ sự hấp dẫn
trong sự tiếp cận của chúng ta.”
Trong một sự trình bày về nhận
thức của thần kinh học về tham
dục-thèm muốn, Howard Fields,
MD, PhD, giám đốc của Trung tâm
Wheeler về Thần kinh của sự
Nghiện ngập tại UCSF, đề cập đến
một loại thuốc gọi là
rimonabant, hoạt động trong
những khu vực của não bộ điều
phối thèm muốn để giảm bớt hút
thuốc trong những người nghiện.
Họ cũng giảm bớt cân, một lời
tuyên bố làm khán giả há hốc
miệng ra.
Giáo sư Fields đặt câu hỏi về
điều rằng: có phải nó là một sự
tiếp cận tốt khi dùng sự can
thiệp về dược lý để giảm bớt
thèm muốn hay không – hoặc có
thể có một phương pháp dùng
những cảm nhận phát triển về tuệ
trí và từ bi để thay đổi những
quyết định trong những bệnh nhân
hay không?
Đức Dalai Lama suy nghĩ ý kiến
này và muốn biết có một loại
thuốc như vậy mà có thể giảm bớt
hay xóa bỏ tất cả những hình
thức của thèm muốn hay không.
Trong khi nhận thức như thế có
thể tiêu biểu cho sự giác ngộ
tâm linh đến những người Phật
tử, giáo sư Fields trả lời rằng
loại thuốc như thế có thể là
tình cảnh tương đương bao gồm
một trạng thái hôn mê. Đối với
điều này Đức Dalai Lama bình
luận, “Đó là một thảm họa.”
Suốt ngày, cuộc thảo luận về
nhận thức “khổ đau” cũng được
nhấn mạnh những khác biệt văn
hóa nổi bật trong ý nghĩa của
chữ nghĩa. Thế giới phương Tây
cố gắng tránh khổ đau và làm nhẹ
bớt nếu nó xảy ra. Trong Phật
giáo, nó là một phần đoán trước
của đời sống.
Có lẻ, như giáo sư của Emory về
tâm lý và thần kinh học Helen
Mayberg, MD, tổng kết, sự đau
đớn cùng cực của bệnh hoạn phải
được giảm bớt – qua thuốc men,
sự kích thích sâu bộ não hay
chửa bệnh – cho phép tâm thức
chạm đến một tình trạng tích cực
hơn. Người ta có thể cố gắng làm
điều này nơi chính họ, nhưng bà
hỏi: có cần thiết là quá khó
khăn và xảy ra quá lâu không?
Đức Dalai Lama, người tréo chân
trên ghế trong lớp áo đỏ, không
cung ứng một câu trả lời úp mở
nhanh chóng. Ngài gãi đầu. Ngài
nói về những bông hoa lớn lên và
năng lực yoga. Hiển nhiên, nó
chính là cung cách mà những việc
là như thế.
Từ đầu đến cuối ngày, những
người tham dự vạch rõ vị trí:
một sự nhấn mạnh trên việc tìm
ra sự thật, sự cần thiết để cứu
tế những tâm thức từ “sự cướp
bóc” (hijacking) và mục tiêu của
sự hoàn thành chuyển hóa. Điều
này, dĩ nhiên, có nghĩa là họ
phải có những quan điểm kiến
thức bất đồng. Giáo sư thần kinh
học của Stanford William
Newsome, PhD, lưu ý, “Thần kinh
học có thể chưa sẵn sàng để nói
về sự tham dục-thèm muốn cao độ
của Phật giáo.
Nhưng có nhiều hy vọng cho một
cuộc đối thoại tương lai. Nhận
thức về “lựa chọn” trong xác
định những quyết định và cảm
nhận là một rằng cả khoa học
phương Tây và Phật giáo Tây Tạng
cùng chia sẻ, và nó cung cấp một
nền tảng cho sự thẩm tra tiếp
tục.
“Hội nghị là một thành công thật
sự và chắc chắn vượt quá kỳ vọng
và ước đoán của tôi,” sau này
Pizzo nói thế. “Trong khi điều
này vẫn là một sự bắt đầu nó
cung ứng sự hướng dẫn cho những
con đường mới để du hóa.”
Posted: 11/7/05
__
Dalai Lama and neuroscientists
build bridge between Buddhism
and Western medicine
http://med.stanford.edu/events/dalailama/full_story.html
__
Trang
http://www.sfgate.com/cgi-bin/article.cgi?f=/c/a/2005/11/06/MNGE0FJU5I1.DTL
tường thuật sự kiện trên với một
bài mang nhan đề “Các nhà khoa
học và Phật học gặp gở nhưng
hoàn toàn không thể tiếp cận với
niết bàn” - Scientists,
Buddhists meet but don't quite
reach nirvana.
Niết bàn: - Bắc Phạn: Nirvana,
-Nam Phạn: Nibbana
Chiết tự: - Ni: không, - vana:
xiềng xích
Như vậy, nghĩa gần nhất của niết
bàn là “không xiềng xích”, tức
là tự tại, tự do, hay đồng nghĩa
với giải thoát (mokkha, moksha)
khỏi tham dục và khổ đau!
Các loại niết bàn:
1- Hữu dư y niết bàn
2- Vô dư y niết bàn
3- Vô trụ xứ niết bàn
4- Tự tánh thanh tịnh niết bàn –
Tự nhiên niết bàn
__
TUỆ UYỂN chuyển ngữ |