|
Phật
giáo là ánh sáng. Ánh sáng của
Phật giáo là từ bi, trí tuệ. Ánh
sáng ấy soi rọi lòng người, phá
tan màn vô minh, vị kỷ, tật đố,
tham sân si, để cùng nhau tạo
lấy một cuộc sống an vui hạnh
phúc và xây dựng đức tính tốt
đẹp: đức tính vô ngã vị tha.
Ánh sáng của Phật giáo đã lan
truyền hầu khắp các nước Châu Á
và ngày nay nó đã lan truyền qua
các nước Châu AÂu, Châu Mỹ, Châu
Úc, Châu Phi...
Ánh sáng của Phật giáo đã đến
nước Việt Nam từ thế kỷ thứ I
và đã hòa nhập vào lòng dân tộc,
cùng dân tộc Việt Nam tạo nên
những trang sử oanh liệt, mang
lại độc lập, tự do và hạnh phúc
vững vàng cho đất nước. Trong
lịch sử Việt Nam, các vị Thiền
sư của Phật giáo luôn luôn có
mặt, gắn bó với các triều đại:
nhà Lê, nhà Ðinh, nhà Lý, nhà
Trần... Trong đó có những vị
Thiền sư mà bất cứ một người
viết sử Việt Nam nào cũng không
thể bỏ qua được. Chính lúc Lê
Ðại Hành ở ngôi đã có nhờ thiền
sư Ngô Chân Lưu, Ðỗ Pháp
Thuận... là những vị Thiền sư
bác học, đạo đức cao thâm cùng
chung giúp sức, cố vấn, cho nên
khi vua Lê Ðại Hành hỏi Thiền sư
Ðỗ Pháp Thuận rằng "Vận nước
hiện nay như thế nào?". Thiền sư
Ðỗ Pháp Thuận liền trả lời:
"Quốc tộ như đằng lạc
Nam thiên lý thái bình
Vô vi cư điện các
Xứ xứ tức đao binh" [*]
Tạm dịch:
Vận nước như mây quấn
Trời Nam mở Thái bình
Vô vi trên điện các
Xứ xứ hết đao binh
(Lê Mạnh Thát dịch)
Nghĩa là: "Vận nước ngày nay nó
vững chắc như dây quấn, trời Nam
mở thái bình, vô vi ở trên điện
các, nơi nơi bặc hết đao binh".
Chữ "Vô vi cư điện các" này phải
hiểu: Vô vi không có nghĩa là
không làm gì hết, nhưng có nghĩa
là làm mà không có tư dục, không
có tư tâm. Không những thế, chữ
vô vi trong đạo Phật khác với
chữ vô vi trong đạo Lão. Ðạo Lão
nói đạo là thường hằng tự nhiên,
không có danh, không thể nói.
Muốn được an thì cứ thả tâm tự
nhiên theo đạo, không tác vi gì
cả, chữ vô vi trong đạo Phật là
dịch từ chữ Phạn "Asamskrita",
có nghĩa là không tạo tác, chỉ
cho pháp lành thường trụ không
do nhân duyên tạo tác, không có
sanh diệt biến hoại, khác với
pháp hữu vi là pháp do nhân
duyên tạo tác, có sanh diệt biến
hoại, nên pháp vô vi chính là
một tên khác của Niết-bàn. Như
trong luật Tứ phần, đức Phật
Tỳ-bà-thi dạy: "Nhẫn nhục đệ
nhất đạo, Phật thuyết vô vi
tối..." nhẫn nhục là hạnh tu cao
nhất, Niết-bàn là đạo tối
thượng.
Niết-bàn là tịch tịnh vô vi an
lạc, ngoài mọi vọng tình tà kiến
chấp trước. Như kinh Ðại nhật
phẩm Trụ tâm nói: "Bồ-tát vì
chúng sanh trong pháp giới,
không từ mệt nhọc, thành tựu an
trụ học giới vô vi, xa lìa tà
kiến, thông đạt chánh kiến". Hay
"thâm quán pháp tánh vô vi, hoặc
sanh hoặc pháp (tức hoặc chấp
thật có ngã, thật có pháp) đều
vô sở đắc". Chính trong tinh
thần vô sở đắc đó, kinh Kim cang
dạy rõ: "Ưng vô sở trụ, nhi sanh
kỳ tâm" là hãy đừng trụ vào
tướng gì cả mà sanh tâm bố thí,
trì giới v.v...
Như vậy, chữ "vô vi" trong đạo
Phật đâu có nghĩa là không làm
gì hết, trái lại vô vi là làm
tất cả những gì thuận với pháp
tánh, Niết-bàn, chân như, theo
đó không có chút ý tưởng chấp
ngã, chấp nhân, chấp pháp...
Ngồi ở ngôi cao cai trị muôn dân
với một tinh thần vô vi, vị tha
trị nước, không có tư dục, không
có tư tâm, tất nhiên nước sẽ
yên, dân sẽ bình, không có những
sự rối rắm và không có giặc giã
nổi lên.
Lão Tử nói: "Bất quí nan đắc chi
hóa, sử nhân bất đạo", người ở
ngôi cao mà không thèm quí những
vật khó kiếm được, thì dân sẽ
học theo đó mà không sanh tâm
trộm cắp.
Với cái nghĩa như vậy nó gắn
liền với lịch sử, gắn liền với
Thiền sư Ðỗ Pháp Thuận, với Lê
Ðại Hành. Thế nhưng, tiếc thay
cho đến ngày hôm nay, cũng có
những vị học giả cắt nghĩa rằng:
"Vận nước như dây quấn
Nam thiên mở thái bình
Không làm gì ở điện các
Nơi nơi dấy đao binh"
Từ một nghĩa này lật ngược lại
thành một nghĩa khác. Từ nghĩa
vô vi như vừa nói lại bảo là
không làm gì hết, cho nên từ
"tức đao binh" là dứt hết đao
binh lại bảo là "dấy đao binh",
và nếu như các nghĩa sai lầm đó
mà tiếp tục được nhận định, được
cắt nghĩa, thì tất nhiên lịch sử
Việt Nam sẽ bị giải thích một
cách sai lệch. Trong thời Lê Ðại
Hành độc lập mà nói rằng, một vị
Thiền sư đã từng giúp cho Lê Ðại
Hành đánh Tống bình Chiêm giữ
ngôi, giữ nước mà nói không làm
gì ở điện các, nơi nơi dấy đao
binh, cắt nghĩa như thế là đã đi
ngược lại lịch sử.
Cắt nghĩa như thế chẳng những đã
không hiểu Phật giáo mà còn cố
tình làm sai lệch lịch sử Việt
Nam. Do đó cho nên các nhà
nghiên cứu Phật học Việt Nam cần
phải khai mở tất cả những gì
khuất lấp, những gì bị che đậy,
hầu làm sáng tỏ những trang sử
vẻ vang mà Phật giáo đã đóng góp
và xây dựng cho đất nước. Khi đã
khai mở tất cả những sự khuất
lấp đó để cho Phật giáo được
phát huy, cùng nhau xây dựng đất
nước thì đó là một công trình,
một việc làm hết sức thích đáng.
Giáo lý của đức Phật vô cùng
thậm thâm, nhưng không có nghĩa
là hư huyễn, ảo tưởng. Cái vô
cùng thậm thâm đó ở chính trước
mắt, chính ở bên tai, chính ở
trong hành động của chúng ta
hằng ngày. Cái vô cùng thậm thâm
ấy nó chuyển hóa lòng người, là
kim chỉ nam cho các vị Thiền sư
khi cần bảo vệ Phật pháp và đất
nước thì họ hy sinh tính mạng
của mình mà không biết tự ngã.
Nhìn bên ngoài, đọc những câu
kinh Phật có lắm người chê. Chê
rằng: các ông thầy chỉ biết
chuông mõ, đọc lên những câu
kinh Phật, thấy rõ cả một hơi
tiêu cực, yếm thế, bi quan! Thế
nhưng họ quên đi rằng tại sao
lại có những vị Thiền sư yêu đạo
yêu đời như Ngô Chân Lưu, Ðỗ
Pháp Thuận, như Vạn Hạnh đến
thế! Làm sao lại có những vị đã
hy sinh cao cả, đã đem lại vinh
dự không những cho Phật giáo
Việt Nam mà còn làm vinh dự cho
dân tộc Việt Nam như Bồ-tát
Thích Quảng Ðức đến thế! Thế mới
biết rằng đằng sau cái nhìn có
vẻ tiêu cực, Phật giáo có một
sức mạnh vô cùng tích cực.
Ðó chính là một câu hỏi mà ngày
hôm nay cũng còn nhiều người
đang đặt ra và đang suy nghĩ về
nó. Họ nói: không biết tại sao
khi đọc trong kinh Phật, không
thấy câu nào nói đến yêu nước
hết, chẳng có chữ nào nói đến Tổ
quốc hết, thế nhưng tại sao lại
có những vị Thiền sư lại làm nên
việc mà thiết tưởng trong chúng
ta ít mấy ai làm được? Thế cho
biết nơi mỗi con người chúng ta
từ trong bản chất, theo như đức
Phật gọi: "Tất cả mọi người đều
có tính Phật", cái tính Phật đó
nó gồm đủ các nghĩa đại từ bi,
đại trí tuệ, đại giải thoát, đại
hùng lực. Nhưng cái tính Phật đó
đồng thời nó cũng bị những cái
tính chúng sinh như: tham, sân,
si, ngã mạn, tật đố, hẹp hòi,
nhỏ mọn, ích kỷ, che lấp. Khi đã
bị những cái tiêu cực đó nó che
khuất, nên cái tính tích cực bị
chôn vùi mà không phát triển ra
được.
Do đó phải đọc kinh, học kinh,
tụng kinh để tiêu diệt tính tiêu
cực tham, tiêu cực sân, tiêu cực
si, tiêu cực ngã mạn, tật đố...
Khi mà những cái tiêu cực đó đã
tiêu đi thì tự nhiên tính tích
cực bộc lộ ra, không cần nhắc
tới nó cũng bộc phát.
Mặt trời vẫn sáng nhưng bị làn
mây khuất lấp, khi làn mây tan
đi thì mặt trời tự sáng, không
cần đòi hỏi ánh sáng mặt trời
thì mặt trời cũng tự sáng. Chính
những điều đó đã cắt nghĩa cho
chúng ta, giải đáp các câu hỏi:
tại sao đọc những câu kinh Phật
thấy có vẻ bi quan yếm thế,
nhưng đến khi làm những việc
tích cực thì rất lớn lao?
Trong thời đức
Phật, Ngài cũng dạy cái đạo lý
tương tợ như thế. Có những kẻ
ngoại đạo đến chỉ trích đức Phật
rằng: "Ồ, ông Phật, ông cứ đi
truyền bá cái Ðạo phá hoại sự
sống, truyền bá cái Ðạo hư vô,
người ta nói như vậy có đúng
không thưa ông?"- Ðức Phật trả
lời: "Ðúng đấy! Ta truyền bá cái
Ðạo phá hoại sự sống, nhưng là
cái Ðạo phá hoại sự sống tham
lam, phá hoại sự sống ích kỷ,
phá hoại sự sống tật đố và
truyền bá cái Ðạo hư vô, nhưng
là Ðạo hư vô tính xấu, hư vô
hành động ích kỷ, hư vô hành
động phá hoại. Ðây chính là cái
Ðạo ta truyền".
[Tăng Chi, Phẩm
thắng Tri Tham – HT. Minh Châu
dịch]
Nếu như không nghiên cứu chúng
ta sẽ chấp chặt cái hư vô phá
hoại đời sống, rồi chúng ta
cũng sẽ mang một cái lầm như các
nhà ngoại đạo kia gán lên cho là
lời dạy của đức Phật. Vì lẽ đó
cho nên cần phải có người nghiên
cứu Phật học để phát huy cái cao
cả, phát huy cái sáng suốt, cái
tinh hoa trong kho tàng giáo lý
đức Phật, để sửa sai những cái
hiểu lầm, những cái hiểu không
đúng, đã, đang và sẽ có hại đối
với đạo Phật chúng ta.
|
|